Ung thư vú nam

0
19933

Khác với ung thư vú ở nữ giới là một loại ung thư phổ biến nhất và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng hàng thứ hai ở nữ giới, ung thư vú ở nam giới là một bệnh hiếm gặp. Bệnh có nhiều điểm giống với ung thư vú ở nữ giới, nhưng cũng có một số điểm rất khác biệt.

chua-tri-ung-thu-vu-nam-o-dau-hieu-qua

Các yếu tố nguy có của ung thư vú nam
Một phân tích ngược các nghiên cứu về ca lâm sàng có đối chứng nhận thấy các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú ở nam giới có thể là chưa bao giờ kết hôn, có nguồn gốc Do thái, đã có bệnh tuyến vú lành tính, chứng vú to, tiền sử có bệnh tinh hoàn hoặc bệnh gan, tiền sử gia đình bị ung thư vú hoặc đã chiếu xạ thành ngực trước đó. Các tình trạng bệnh ở tinh hoàn làm tăng nguy cơ ung thư vú ở nam giới là viêm tinh hoàn, tinh hoàn lạc chỗ và tổn thương tinh hoàn. Một số tổn thương gan mạn tính đi kèm với ung thư vú ở nam giới là xơ gan, bệnh gan do rượu và bệnh sán máng.

Chứng vú to ở đàn ông thường liên quan đến việc sử dụng một số loại thuốc. Đây có thể không phải là tình trạng tiền ung thư vú ở nam giới nhưng có liên quan đến căn bệnh này bởi các yếu tố nguy cơ về hoóc-môn cũng tương tự.

Thay đổi tỷ lệ estrogen/testosteron
Một số tình trạng bệnh làm tăng nguy cơ ung thư vú ở nam giới có thể gây ra hoặc đi kèm với tình trạng thừa estrogen hoặc thiếu androgen tương đối. Ví dụ, đàn ông bị bệnh gan sẽ tăng sản xuất androstenedion ở tuyến thượng thận, tăng quá trình tạo nhân thơm từ androstenedion thành estron và tăng chuyển estron thành estradiol. Mặt khác, androgen còn có tác dụng bảo vệ mô vú bằng cách ức chế quá trình tăng sinh tế bào. Mối liên hệ giữa ung thư vú ở nam giới và u tiết prolactin là một tình trạng bệnh thường có nồng độ testosteron huyết tương thấp phù hợp với giả thuyết này.

Từ đó người ta cho rằng những thay đổi tương đối về hoóc-môn nam và nữ nội sinh có thể có vai trò nguyên nhân gây ung thư vú ở nam giới. Tuy nhiên người ta không phát hiện được các bất thường về hoóc-môn ở máu ngoại vi những bệnh nhân nam bị ung thư vú. Hơn nữa, những bệnh có tăng tỷ lệ estrogen/testosteron và/hoặc chứng vú to ở đàn ông như béo phì, bệnh tuyến giáp, dùng cần sa, dùng estrogen ngoại sinh (ví dụ: chuyển đổi giới tính, điều trị ung thư tuyến tiền liệt) còn có ít quan hệ với ung thư vú ở nam giới hơn.

Hội chứng Klinefelter
Yếu tố nguy cơ mạnh nhất gây ung thư vú ở nam giớihội chứng Klinefelter, đây là một căn bệnh hiếm gặp khi có thừa một nhiễm sắc thể X. Những người đàn ông này có nguy cơ ung thư vú cao gấp 50 lần so với những người đàn ông mang kiểu gen bình thường. Hội chứng Klinefelter gây teo tinh hoàn, vú to, tăng nồng độ các chất hướng sinh dục (hoóc-môn kích thích nang, hoóc-môn tạo hoàng thể) huyết thanh và giảm nồng độ testosteron huyết thanh, từ đó dẫn đến tăng tỷ lệ estrogen/testosteron.

Tố bẩm di truyền
Khoảng 5 -10% các trường hợp ung thư vú ở nữ giới có thể liên quan đến tố bẩm di truyền. Người ta ước tính có khoảng 80% các gia đình có nhiều người bị ung thư vú di truyền theo tính trạng trội trên nhiễm sắc thể thường có mang các gen gây ung thư vú/buồng trứng BRCAi và BCRA2. Theo số liệu hiện có, 4 – 35% bệnh nhân nam bị ung thư vú có đột biến genBRCA2, các trường hợp có đột biến gen BRCAi còn ít hơn. Dưới đây là các kết quả đã tìm được:

– Hai dòng họ có đột biến mầm gen BRCAi và có nhiều trường hợp nữ giới ung thư vú thì mỗi dòng họ có một nam giới bị ung thư vú.

– Trong một nghiên cứu tiến hành trên 50 trường hợp nam giới bị ung thư vú, 14% số bệnh nhân này có đột biến mầm genBRCA2 mà trong đó 85% (6 trong số 7 bệnh nhân) có người thân trong gia đình bị ung thư vú là nam hoặc là nữ. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng quan sát được điều này về sau vì những người mang đột biến mầm gen BRCA2 có thể không biểu hiện kiểu hình ung thư (hay, mức ngoại hiện khác nhau).

– Trong hai nghiên cứu riêng rẽ, người ta đã phát hiện được các đột biến gen BRCA2 ở khoảng 1/3 các trường hợp nam giới ung thư vú; tuy nhiên, không một ai trong số này có tiền sử gia đình bị ung thư vú nam hoặc nữ.

– Trong một nghiên cứu có 54 bệnh nhân nam ung thư vú được phân tích để tìm đột biến mầm gen BRCAi và BRCA2, 9 trường hợp (17%) có ít nhất một người thân cấp độ I bị ung thư vú và/hoặc ung thư buồng trứng. Không phát hiện được trường hợp nào bị đột biến gen BRCAi trong nhóm này. Hai bệnh nhân nam có đột biến mầm gen BRCA2, chi có 1 người trong số này có một thành viên trong gia đình bị ung thư buồng trứng.

– Trong một nghiên cứu tiến hành trên 17 bệnh nhân nam ung thư vú, 6 bệnh nhân (35%) có đột biến gen BRCA2 và 2 bệnh nhân (12%) có đột biến gen BRCAi.

– Bệnh nhân có đột biến mầm gen BRCA2 có nguy cơ ung thư vú trong cả cuộc đời ước tính là 6%; cao hơn 100 lần so với nguy cơ ở nam giới trong cộng đồng nói chung.

Ung thư vú nam được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư vú nam là gì?

Ung thư vú nam giới điển hình là các khối u rán, không đau, thường ở vùng quầng núm vú hoặc ít gặp hơn là ở 1/4 trên ngoài của vú. Có vẻ u hay xuất hiện bên trái hơn chút ít, dưới 1% các trường hợp có u cả hai bên. Độ tuổi trung bình tại thời điểm bệnh được chẩn đoán là khoảng 66 tuổi.

Các phát hiện khác khi bệnh nhân đến khám gồm có co kéo núm vú, loét đâu vú hoặc da, dính da vào lớp cơ phía dưới, đau và có hạch nách. Chảy máu – thanh dịch hoặc chảy máu núm vú là những biểu hiện không thường gặp.

Nguồn: benhvienungbuouhungviet.vn

Xem thêm:

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here